
Loài ngoại lai xâm hại là một trong các nguyên nhân chính gây suy giảm đa dạng sinh học và gây tổn thất tới nhiều ngành kinh tế như nông, lâm, ngư nghiệp. Thời gian qua, có nhiều vụ việc buôn bán, nhập khẩu, phát triển trái phép loài ngoại lai xâm hại ở nhiều nơi trong cả nước, đặc biệt gần đây là vụ việc tôm hùm nước ngọt.
Trong nhiều nguyên nhân gây tổn thất ĐDSH, các loài sinh vật ngoại lai xâm hại được coi là một trong những mối đe dọa nguy hiểm. Phần lớn các loài du nhập không sống được tại những nơi mới đến do môi trường không phải lúc nào cũng phù hợp với điều kiện sống của chúng. Dù vậy, vẫn có một tỷ lệ nhất định các loài nhập cư thiết lập được cuộc sống trên vùng đất mới và nhiều loài trong đó còn vượt trội, xâm lấn các loài bản địa. Các loài du nhập này thậm chí còn cạnh tranh với các loài bản địa để có được nguồn thức ăn và nơi ở. Các loài du nhập còn ăn thịt các loài bản địa cho đến khi chúng tuyệt chủng, hoặc làm thay đổi nơi cư trú đến mức nhiều loài bản địa không thể nào tồn tại được nữa, hoặc lây truyền các bệnh dịch nguy hiểm cho sinh vật và con người khu vực bị xâm hại.
Một trong những lý do quan trọng khiến các loài du nhập dễ dàng chiếm lĩnh các nơi cư trú mới là ở nơi cư trú mới chưa có các loài thiên địch của chúng như các loài động vật là kẻ thù, các loài côn trùng và các loài ký sinh, gây bệnh. Các hoạt động của con người tạo nên những điều kiện môi trường không bình thường, như sự thay đổi các nguồn dinh dưỡng, gây cháy rừng, tăng lượng ánh sáng,… tạo cơ hội cho các loài du nhập thích ứng nhanh hơn và loại trừ được các loài bản địa.
Kinh nghiệm cho thấy nhiều loài ngoại lai xâm hại không biểu hiện tác hại của chúng ngay sau khi xâm nhập vào một môi trường sống mới mà thường trải qua một giai đoạn “ủ bệnh”. Giai đoạn này dài hay ngắn tuỳ thuộc vào từng loài cũng như vào đặc điểm môi trường mà chúng xâm nhập vào. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu nhưng nguyên nhân của hiện tượng này vẫn chưa được sáng tỏ. Tuy nhiên, người ta cũng thấy rằng các hệ sinh thái đã bị biến đổi thường dễ bị tác động hơn các hệ sinh thái còn nguyên vẹn. Đây là một khó khăn lớn cho công tác kiểm soát và phòng ngừa tác hại của loại sinh vật này.
Các tác động của sinh vật ngoại lai xâm hại, không những chỉ làm suy giảm ĐDSH, mà còn ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh khác về sức khoẻ, kinh tế, xã hội của con người. Để giải quyết vấn đề này, biện pháp phòng ngừa được ưu tiên hàng đầu vì một khi sinh vật ngoại lai xâm hại đã thích nghi và phát triển thì chi phí để tiêu diệt chúng là rất lớn và hầu như rất khó tiêu diệt hoàn toàn.
Theo Cục Bảo tồn Thiên nhiên và Đa dạng sinh học, Tổng cục Môi trường, số lượng sinh vật ngoại lai xâm hại có khoảng 94 loài, trong đó có 42 loài xâm hại thuộc họ thực vật; 48 loài động vật thủy sinh. Đáng lo ngại là có trường hợp du nhập những loài thủy sinh vật ngoại lai vào Việt Nam với số lượng lớn nhưng do chưa được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ đã để xảy ra tình trạng bùng phát trong tự nhiên và gây ra hệ lụy nặng nề, đang tác động trực tiếp lên đa dạng sinh học của Việt Nam.
Bên cạnh việc phát triển có chủ đích các loài ngoại lai xâm hại, hệ sinh thái tự nhiên Việt Nam còn chịu sự xâm hại của các loài ngoại lai du nhập vào theo các con đường tự nhiên. Cây mai dương có nguồn gốc từ châu Mỹ và xuất hiện đầu tiên tại đồng bằng sông Cửu Long vào năm 1979, đến nay đã lan rộng khắp cả nước. Bọ cánh cứng hại dừa được phát hiện vào năm 1999 ở tỉnh Bến Tre và nay đã gây hại cho hơn 30 tỉnh, thành phố thuộc đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Ngoài ra, loài rùa tai đỏ, tôm hùm nước ngọt…cũng là những loài đã được quốc tế cảnh báo là loài xâm hại nguy hiểm, tác động tiêu cực đến đa dạng sinh học, các ngành kinh tế nhưng vẫn được nhập khẩu, phát tán và nuôi trồng tự phát tại Việt Nam.
Mới đây nhất là trường hợp tôm hùm nước ngọt. Đây là loài động vật có nguồn gốc từ Bắc Mỹ, ăn tạp, có khả năng thích nghi cao với môi trường, nhanh chóng thiết lập quần thể ở nơi chúng xuất hiện. Các tác động của loài đến môi trường và đa dạng sinh học đã được ghi nhận trên thế giới gồm cạnh tranh môi trường sống, truyền bệnh cho các loài tôm bản địa, giảm quần thể thực vật thuỷ sinh, động vật không xương sống, động vật thân mềm và động vật lưỡng cư thông qua mối quan hệ ăn thịt và cạnh tranh; có thể ảnh hưởng tới việc thay đổi chất lượng nước và đặc điểm trầm tích, tích lũy kim loại nặng; có khả năng đào hang gây thiệt hại cho hệ thống tưới tiêu nông nghiệp; có tác động đến ngành công nghiệp đánh bắt cá… Loài này đã được ghi nhận xâm lấn tại nhiều nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Kenya, Ai Cập, Uganda, Zambia, Mê-hi-cô, Cộng hòa Síp, Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha…
Tại Thanh Hóa, ghi nhận 7 loài ngoại lai xâm hại nguy hiểm phân bố ở Việt Nam đã xuất hiện trên địa bàn tỉnh; trong đó có 1 loài thực vật thủy sinh – Bèo Nhật Bản, Bèo lục bình (Eichhornia crassipes (Mart.) Solms); 5 loài thực vật ở cạn gồm: Cây cứt lợn (Ageratum conyzoides L.), Cỏ Lào (Chromolaena odorata (L.) King & Robinson), Cây Mai dương, cây Trinh nữ tây (Mimosa pigra L.), Trinh nữ móc, Cây xấu hổ (Mimosa diplotricha C. Wright), Cây Bông ổi, cây Hoa ngũ sắc (Lantana camara L.); 1 loài động vật không xương sống – Ốc bươu vàng (Pomacea canaliculata (Lamarck, 1828)). Loài Tôm càng đỏ, Tôm hùm đất (Cherax quadricarinatus) đến nay chưa ghi nhận có sự xuất hiện trên địa bàn tỉnh, tuy nhiên để bảo vệ môi trường, tránh các tác động xấu đến sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh; ngày 23/5/2019, Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành Công văn số 6273/UBND-NN về việc tăng cường kiểm soát loài Tôm càng đỏ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nhằm phòng ngừa, có biện pháp ngăn chặn loài này (nếu có) phát tán ra môi trường tự nhiên.
* Một số giải pháp quản lý hiệu quả các loài ngoại lai xâm hại
Tác giả: Nguyễn Tuấn Anh
Đơn vị quản lý:
Hạt Kiểm lâm huyện Quan Hóa, trực thuộc Chi cục Kiểm lâm Thanh Hóa
© 2015 - 2022 Chi cục Kiểm lâm Thanh Hóa